Năm 1970, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ bước vào giai đoạn
căng thẳng, nhu cầu chi viện cho các mặt trận phía Nam trở nên cấp bách. Thực
hiện lệnh tổng động viên, các địa phương Miền Bắc và Miền Trung đồng loạt gọi
thanh niên, sinh viên đi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự. Gác lại việc học để
lên đường chiến đấu, mỗi thanh niên lúc ấy đều mang trong mình một thông điệp
sâu sắc, đó là tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả vì độc lập dân tộc, thống
nhất Tổ quốc. Và đó
cũng là câu chuyện của Cựu chiến Binh Lê Văn Khuy ngụ tại xã Xuân Hiệp.
Theo lời giới thiệu của ông Trần Văng Sang - Chủ
tịch Hội cựu chiến binh huyện Xuân Lộc, chúng tôi tìm đến nhà CCB- thương binh
Lê Văn Khuy. Đón chúng tôi là người đàn ông với mái tóc điểm bạc, dáng cao gầy,
và đôi mắt cực kỳ linh hoạt nhưng nếu không nói ra hẳn sẽ không nhiều người
biết là nó đã không còn nhìn thấy rõ mọi thứ xung quanh bởi di chứng của chiến
tranh. Chẳng ai nghĩ người đàn ông này đã kinh qua những năm tháng trận mạc đầy
khốc liệt. Bên ấm trà nóng của những ngày đầu năm mới 2022, ông bắt đầu kể cho
chúng tôi nghe về về thời khắc hân hoan khoác ba lô cùng đồng đội lên đường chi
viện cho chiến trường Miền Nam chiến đấu chống kẻ thù xâm lược cũng như niềm hy
vọng dẫu có mong manh là khi non sông thu về một mối sẽ lại được trở lại giảng
đường để tiếp tục ước mơ còn giang dở của mình là trở thành anh kỷ sư Nông
nghiệp. Ông Khuê tâm sự: “Cuối
năm 1969 tôi vừa thi đậu trường đại học Nông nghiệp Hà Bắc – đang chuẩn vị làm
thủ tục nhập học thì được lệnh đi khám nghĩa vụ quân sự - và tôi trúng tuyển. Lúc đó không riêng
gì tôi ai được nhập ngũ là cảm thấy vinh
dự, tự hào lắm. Ai cũng mang trong mình hoài bão, lí tưởng của tuổi trẻ là phải
độc lập, tự do cho đất nước nên sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ, sẵn sàng hi sinh
nên có chết cũng là điều vô cùng nhẹ nhàng”. Cũng giống như bao
thanh niên cùng trang lứa lúc bấy giờ đã chuẩn bị sẳn sàng “xếp bút nghiêng”
lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Tháng 8 năm 1970 ông Khuy
chính thức nhận hành trang lên đường nhập ngũ, đúng vào giai đoạn khốc liệt nhất
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chỉ vỏn vẹn 1 tháng 18 ngày được huấn
luyện tân binh tại Sư đoàn 338, đơn vị ông được bổ sung cho trung đoàn 46- sư
đoàn chủ lực cơ động 320 quân khu 3. Những ngày cuối năm 1970 ông được lệnh vào
Nam nhận nhiệm vụ, và cuộc hành quân với tốc độ nhanh phi thường của Sư đoàn
320 bắt đầu. ......
Trong câu chuyện kể của CCB Lê Văn Khuy
thì không khí sục sôi của những ngày vượt đường Trường Sơn - xông pha nơi hòn
tên, mũi đạn như được lại được tái hiện một cách nguyên vẹn. Sau khi mở được cánh cửa phía Nam tại Quảng
Trị ông cùng đơn vị (lúc
này đã đổi thành Trung đoàn 52- tiếp tục hành quân theo hướng Quốc lộ tiến vào
Quảng Ngãi để phối hợp cùng lực lượng du kích và bộ đội
địa phương tham gia vào chiến dịch giải phóng Batơ, rồi tiếp tục tham gia trận
Suối Đá tại Quảng Nam tiếp đến là tham gia vào chiến dịch Tây Nguyên....và cuối
cùng là mặt trận Miền Đông nam Bộ. Chỉ
trong vòng 3 năm góp mặt trong những trận
đánh ác liệt, anh lính trẻ Lê Văn Khuy ngày nào giờ đây cũng đã dạn dày sương
gió, gan lì trong trận mạc, nhưng đứng trước sự khốc liệt và mất mát của chiến
tranh- nhất là khi chứng kiến cảnh
đồng đội hy sinh trước ngay trước mắt mình, cũng đã có lúc trái tim ông
chợt như chùng lại khi nghĩ về cha mẹ già ở quê và cả lời từ biệt với người vợ trẽ trước khi lên đường
rằng đất nước thống nhất “anh sẽ trở về”....... Để rồi lời hứa đó đã tiếp thêm
sức mạnh cho người lính mỗi khi bước vào trận chiến, là hy vọng về ngày giải
phóng, thống nhất đất nước đã đến gần.
Lần giở cho cho chúng tôi xem những vết thương củ trên khắp cơ thể
của mình, đôi mắt vốn dĩ đã không còn nhìn thấy rõ của ông –chợt như bừng sáng
lên khi nhớ về trận đánh cuối năm 1973 tại Xuân Lộc. Hôm đó đơn vị ông đang đi
trinh sát để chuẩn bị tiến hành trận đánh quan trọng tiếp theo thì bị địch phát
hiện – ông trúng pháo kích, bị thương và
ngất đi, khi tỉnh dậy mới biết mình đang năm trong quân y viện -sau nhiều tháng điều trị, ông lại xin
ra mặt trận để tiếp tục được chiến đấu cùng đồng đôi, nhưng vì sức khỏe không
còn bảo đảm nên đơn vị điều ông về phụ trách công việc hậu cần cho đến ngày giải
phóng....Hơn 46 năm đã trôi qua, vết thương của ông Khuy cũng đã dần lành theo
năm tháng, nhưng giờ đây ông vẫn cánh cánh một vết thương lòng, mà có lẽ nó sẽ
theo ông cho đến cuối cuộc đời, bởi trong 6 người con của ông bà được sinh ra
sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng thì đã có đến 2 người bị nhiểm chất độc
da cam mà mãi về sau này ông mới biết. Đó là nỗi đau dai dẳng và khốc liệt nhất khi từng ngày, từng giờ ông phải chứng kiến
di chứng chiến tranh đày đọa các con mình. Và đó cũng là trận tuyến mới mà những
người thương binh nhiễm chất độc da cam như ông phải đối mặt trong thời bình.
Người cựu chiến binh buồn bã kể: “Ban đầu sinh con ra chúng đều mạnh khỏe nhưng sau đó mới phát
hiện bị dị tật mà không hiểu nguyên do. Mãi đến khi các con lớn lên ...tôi đi khám khi có mới biết chúng bị nhiễm chất độc hóa học.
Bình thường thì không sao những khi nó lên cơn nó đập phá lung tung – thương
con chúng tôi phải cắng rắng chịu đựng , xót xa lắm cô à . Thương con lắm nhưng
đã rơi vào tình cảnh này thì cũng phải cố gắng để vượt qua chứ biết cậy nhờ ai
được bây giờ. Những
thương binh, những nạn nhân da cam như chúng tôi
không trách một ai. Lịch sử giao cho ai việc gì hãy cứ làm tốt việc đấy. Chỉ có
một điều, là một người cha, trong tôi luôn canh cánh một nỗi lo và không lúc
nào hết băn khoăn về tương lai của con mình. Khi những người như chúng tôi già
yếu rồi chết đi không biết những đứa con bị nhiễm da cam sẽ sống thế nào”.
VỀ GIỮA ĐỜI HƯỜNG
Cựu binh Lê Văn khuy áo trắng
Tháng 9 năm
1975, ông Khuy được đơn vị giải quyết cho trở về quê nhà Thôn Đoàn –Xã Vĩnh Thịnh – Huyện Vĩnh
Lộc –Tỉnh Thanh Hóa ( nay là TP Thanh Hóa ) theo nguyện vọng. Hơn 6 năm trôi
qua kể từ ngày ông lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc- nơi đây giờ vẫn chỉ là một vùng quê nghèo,
không có nhiều thay đổi. Đành gác lại ước mơ còn dang dở ngày nào, để vừa và
tham gia vào một số công tác tại địa phương, vừa ổn định lại cuộc sống. Đến năm
1976 vì lý do sức khỏe, cũng như kinh tế quá khó khăn ông ra quân, trở về nhà
giúp vợ làm nông. Cứ ngỡ rằng sau những mất mát của chiến tranh -CCB –thương
binh Lê Văn Khuy sẽ dành những năm tháng còn lại của cuộc đời mình tại nơi chôn
nhau cắt rốn này. Nhưng cái nghèo cái khổ cứ thế bủa vây. Năm 1994, một lần nữa ông lại khăn
gói, dắt díu vợ con tạm biệt quê hương –Vào mảnh đất Miền Nam lập nghiệp, chỉ
mong rằng cuộc sống sẽ đổi thay. Và Xã Xuân Hiệp- Huyện Xuân Lộc –Tỉnh Đồng
Nai- là nơi ông chọn làm quê hương thứ hai của mình. Trải qua gần 30 năm, cuộc
sống của gia đình ông giờ đây cũng chỉ được coi là ổn hơn tí chút- Nhưng kể từ
khi bệnh tình của người con trai thứ ba trở nặng, đặc biệt di chứng chiến tranh
ngày càng xuất hiện rõ ràng hơn trong cơ thể ông Khuy thì cũng là lúc đôi mắt
ông dần không còn nhìn thấy rõ ánh sáng –Hơn 10 năm qua người thương bình này
đang dần quen với bóng tối, mọi gánh nặng đổ dồn lên đôi vai người vợ yếu ớt. Cuộc sống của hai vợ chồng ông chủ yếu
là từ tiền hổ trợ cho thương binh hạng 2/4 và nạn nhân nhiễm chất độc da
cam/đi-ô-xin. Dù đã hết sức tằn tiện nhưng thỉnh thoảng bà mới có được bữa ăn
ngon dành cho ông –trong khi bản thân ông lại rất cần có thêm sức khỏe, để chống
chọi với bệnh tật. Đó là chưa kể cứ mỗi khi lên cơn người con trai thứ ba lại đập
phá hết mọi thứ trong nhà, dù xót của những vì thương con, ông bà đành cắn răng
chịu đựng. Những đứa con may mắn lành lặn thì cũng quá khó khăn nên không thể
giúp gì được cho cha mẹ . .Nhìn
thấy hoàn cảnh hiện tại của ông chúng tôi vô cùng xót xa nhưng điều đáng quý ở
người thương binh này là không bao giờ nghe một tiếng than thở. Mà trên đôi mắt
đang mất dần đi ánh sáng kia vẫn ánh lên những tia hi vọng về cuộc sóng
Vâng! có thể cuộc sống của
CCB thương binh Lê Văn Khuy sẽ thay đổi nếu tiếp tục học đại học, nhưng thay vì
cầm bút ông lại chọn cầm súng để bảo vệ độc lập tự do cho dân tộc. Dẫu cuộc sống
vẫn còn nhiều khó khăn nhưng ông vẫn luôn tin vào sự lựa chọn đúng đắn của
mình. Lắng nghe câu chuyện của ông, chúng ta lại thấy thương và cảm phục những người lính cụ Hồ bởi chiến
tranh, số phận dẫu tàn nhẫn, khốc liệt đến đâu cũng không khiến họ đầu hàng, gục
ngã.
Ngọc
Hoàng