Ông B.K.Q. ngụ tại xã
Suối Cát, huyện Xuân Lộc khiếu nại Quyết định số 13379/QĐ-UBND ngày 30/11/2021
của UBND huyện về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ cho ông B.K.Q. bị
ảnh hưởng dự án Nâng cấp đường tỉnh ĐT 763 đoạn từ Km0+000 đến Km29+500 (cuối
tuyến), phân kỳ đầu tư đoạn từ Km0+000-Km8+300 và Km15+000-Km24+000, đoạn qua
huyện Xuân Lộc (sau đây gọi tắt là Quyết định số 13379/QĐ-UBND và dự án nâng
cấp đường tỉnh ĐT 763).
Ngày 22/12/2021,
ông B.K.Q. nhận Quyết định số 13379/QĐ-UBND. Không đồng ý với Quyết định số 13379/QĐ-UBND,
ông B.K.Q. có đơn gửi UBND huyện yêu cầu giải quyết.
Theo đơn
khiếu nại đề ngày 24/12/2021 và kết quả làm việc với ông B.K.Q. thể hiện: ông B.K.Q.
khiếu nại Quyết định số 13379/QĐ-UBND ngày 30/11/2021 của UBND huyện và đề nghị
xem xét nâng giá bồi thường đối với Trụ cổng xây gạch và bê tông cốt thép (STT
2); Mái che: mái tôn, khung cột sắt (STT 10); Khung sắt + vách tôn (STT 11) và
khung cột sắt + vách kính (STT12) (Tại
Bảng tính giá trị bồi thường kèm theo Quyết định số 13379/QĐ-UBND).
Hình ảnh TL 763 khi chưa được nâng cấp
Qua kết quả
làm việc với các ngành, đơn vị, cá nhân có liên quan, kiểm tra hồ sơ, tài liệu và
đối chiếu các quy định của pháp luật thể hiện:
Thực hiện dự án Nâng cấp
đường tỉnh ĐT 763, đoạn qua huyện Xuân Lộc, ông B.K.Q. bị ảnh hưởng dự án, cụ
thể bị thu hồi 66 m2 đất thuộc thửa đất số 64, tờ 10, xã Suối Cát
(đã được Sở Tài nguyên- Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CV 439273 ký ngày 03/4/2020 cho ông B.K.Q..
Cùng ngày 30/11/2021, UBND huyện ban hành các
Quyết định số 12053/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư dự án Nâng cấp đường tỉnh ĐT 763 đoạn từ Km0+000 đến Km29+500 (cuối
tuyến), phân kỳ đầu tư đoạn từ Km0+000-Km8+300 và Km15+000-Km24+000, đoạn qua
huyện Xuân Lộc (Đợt 1) tại xã Suối
Cát, trong đó có trường hợp của ông B.K.Q.; Quyết định số 12280/QĐ-UBND về việc thu hồi
đất thực hiện dự án Nâng cấp đường tỉnh ĐT 763, theo đó thu hồi diện tích đất 66m2
thuộc thửa đất số 64, tờ bản đồ số 10, bản đồ địa chính Suối Cát của ông B.K.Q.; Quyết
định số 13379/QĐ-UBND về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ cho ông B.K.Q.. Theo đó, ông B.K.Q. được bồi thường,
hỗ trợ tổng số tiền là 76.951.770 đồng, trong đó: bồi thường về đất là: 41.118.000
đồng, bồi thường về vật kiến trúc là 29.527.770 đồng; bồi thường về cây trồng,
hoa màu là 306.000 đồng và thưởng chấp hành tốt chủ trương là 6.000.000 đồng.
+ Bồi thường, hỗ trợ về tài sản: Ông B.K.Q. bị ảnh hưởng các tài sản, trong đó có: Trụ cổng
hàng rào và 01 phần diện tích vật kiến trúc dùng để chứa vật dụng, cụ thể:
* Liên quan tài sản là trụ cổng hàng rào (5 trụ):
Căn cứ thực tế và trình bày của người dân tại buổi kiểm kê ngày
11/6/2021, Tổ kiểm đếm đã tách phần cột trụ cổng và trụ hàng rào thành mét khối
của trụ xây gạch và trụ đổ bê tông cốt thép, cụ thể: Phần xây gạch có khối
lượng là 1,812 m3, Phần cổng được đổ bê tông cốt thép có khối lượng
là 0,9265 m3.
Căn cứ điểm
d khoản 2 Điều 4 (Bồi thường vật kiến trúc, cây trồng) Quy định về giá bồi
thường, hỗ trợ tài sản khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ban
hành kèm theo Quyết định số 11/2019/QĐ-UBND ngày 15/3/2019 của UBND tỉnh Đồng
Nai quy định: “Đối với các tài sản, vật kiến trúc như trụ cổng, móng đá chẻ kết cấu bê
tông, xây gạch hoặc đá thuộc dạng hình khối thì Tổ chức làm nhiệm vụ bồi
thường, giải phóng mặt bằng cấp huyện được phép quy ra mét khối bằng bê tông
hoặc bằng gạch xây để áp giá bồi thường theo mức giá quy định tại Số thứ
tự 10 Phụ lục I) ban hành kèm theo Quy định này”. Theo số thứ tự 10 Phụ lục I bảng giá bồi thường, hỗ trợ
vật kiến trúc (Ban hành kèm theo Quyết định số 11/2019/QĐ-UBND ngày
15/3/2019 của UBND tỉnh Đồng Nai) thì
Trụ cổng bằng bê tông không có cốt thép có giá là 1.498.000 đồng/m3
và Trụ cổng bằng bê tông cốt
thép có giá là 3.744.000 đồng/m3.
Từ những cơ sở trên, UBND huyện đã ban hành Quyết định số 13379/QĐ-UBND về việc phê duyệt kinh phí
bồi thường, hỗ trợ cho ông B.K.Q. để bồi thường Trụ cổng bằng bê
tông không có cốt thép có giá là 1.498.000 đồng/m3 và Trụ cổng bằng bê tông cốt thép có giá
là 3.744.000 đồng/m3.
* Đối với phần diện tích vật kiến trúc dùng để chứa
vật dụng:
Theo biên
bản kiểm đếm về đất đai, thống kê nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất ngày
11/6/2021: Tổ kiểm đếm đã bóc tách phần diện tích vật kiến trúc dùng để chứa
vật dụng của ông B.K.Q. thành nhiều hạng mục: Tường xây gạch (0,35mx3,6m), mái
che nằm trong thu hồi 0,9mx3m và mái che nằm phần ảnh hưởng 1,8mx3m; Khung sắt,
vách tôn (1,45mx2,7m); Khung sắt, vách kính (1,85mx2,7m + 2,83mx3m), nền xi
măng 5cm (1,03mx3m).
Qua đối
chiếu với các quy định tại Phụ lục I Bảng giá bồi thường, hỗ trợ vật kiến trúc
của Quy định về giá bồi thường, hỗ trợ tài sản khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai (ban hành kèm Quyết
định số 11/2019/QĐ-UBND ngày 15/3/2019 của UBND tỉnh Đồng Nai) thì không có
quy định giá bồi thường, hỗ trợ của hạng mục khung sắt+vách tôn, khung sắt vách
kính. Qua rà soát hồ
sơ bồi thường, hỗ trợ của ông B.K.Q. nhận thấy không có văn bản nào của UBND
huyện phê duyệt giá tài sản là khung sắt+vách tôn, khung sắt vách kính để bồi thường, hỗ trợ cho
ông B.K.Q.
* Qua kiểm tra thực tế thì phần diện tích vật kiến trúc dùng để chứa vật
dụng của ông Quyết có kết cấu: Nền xi măng, mái tôn; khung cột sắt; 03 vách
tường có xây tường gạch cao khoảng 30 cm, phần còn lại là khung kiếng, vách
tôn. Phía bên hông có cửa lùa bằng khung sắt kính; vách còn lại được làm khung
lưới b40, bắn tôn, sử dụng chung với nhà kế bên. Phần diện tích này độc lập với
nhà ở, được vay kín để chứa vật dụng.
Như vậy,
phần diện tích này có các tiêu chí để được xem xét là nhà dưới cấp 4 theo quy
định tại Phụ lục 1e Nhà dưới cấp IV ban hành kèm theo Quyết định số
09/2019/QĐ-UBND ngày 11/3/2019 của UBND tỉnh Đồng Nai về việc sửa
đổi một số Phụ lục Đơn giá xây dựng nhà ở để bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất, để bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang thuê, để định giá trong
các vụ án của tòa án, thi hành án và định giá trong các nghiệp vụ kinh tế khác
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ban hành kèm theo Quyết định số 57/2014/QĐ-UBND ngày 20/11/2014 của UBND tỉnh Đồng Nai.
Từ những cơ
sở nêu trên, các hạng mục Tường xây gạch
(0,35mx3,6m), mái che nằm trong thu hồi 0,9mx3m và phần ảnh hưởng 1,8mx3m;
Khung sắt, vách tôn (1,45mx2,7m); Khung sắt, vách kính (1,85mx2,7m + 2,83mx3m);
nền xi măng 5cm (1,03mx3m) đã được bồi thường tại Bảng tính giá trị bồi thường
kèm theo Quyết định số 13379/QĐ-UBND ngày 30/11/2021 của UBND huyện phê duyệt
kinh phí bồi thường, hỗ trợ cho ông B.K.Q., bị ảnh hưởng dự án Nâng cấp đường
tỉnh ĐT 763 đoạn từ Km0+000 đến Km29+500 (cuối tuyến), phân kỳ đầu tư đoạn từ
Km0+000-Km8+300 và Km15+000-Km24+000, đoạn qua huyện Xuân Lộc cần được rà soát,
điều chỉnh cho phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật.
Kết lại, căn cứ điểm d
khoản 2 Điều 4 (Bồi thường vật kiến trúc,
cây trồng) Quy định về giá bồi thường, hỗ trợ tài sản khi Nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và Số thứ tự
10 Phụ lục I Bảng giá bồi thường, hỗ
trợ vật kiến trúc (Ban hành kèm theo Quyết định số 11/2019/QĐ-UBND ngày 15/3/2019
của UBND tỉnh Đồng Nai), UBND
huyện đã bồi thường đối với Trụ cổng bằng bê tông không
có cốt thép với giá 1.498.000 đồng/m3 và Trụ cổng bằng bê tông cốt thép với giá
3.744.000 đồng/m3 là đúng theo quy định của pháp luật. Việc ông B.K.Q.
yêu cầu UBND huyện nâng giá bồi thường là không có căn cứ pháp luật để giải
quyết.
+ Đối với tài sản phần
diện tích vật kiến trúc dùng để chứa vật dụng của ông B.K.Q. khiếu nại là có cơ
sở, cần được xem xét để giải quyết theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo
quyền lợi cho người dân.
Dự án nâng cấp
đường tỉnh ĐT 763 đang triển khai thực hiện
Ngày 23/5/2022, UBND
huyện đã tổ chức đối thoại với ông B.K.Q. theo quy định. Tại buổi đối thoại,
ông B.K.Q. đã được nghe báo cáo xác minh, giải thích của các ngành và đồng ý
không khiếu nại nữa. Đồng thời, ông B.K.Q. có đơn xin rút khiếu nại ghi ngày
22/12/2021 đối với Quyết định số 13379/QĐ-UBND ngày 30/11/2021 của UBND huyện
Xuân Lộc.
Căn cứ Điều 10 Luật
khiếu nại năm 2011 và Nghị định số 124/2020/NĐ-CP
ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều của Luật Khiếu nại; Chủ tịch
UBND huyện ban hành quyết định đình chỉ giải quyết khiếu nại của ông B.K.Q.
Tuy nhiên, cũng tại buổi
đối thoại, ông B.K.Q. có ý kiến đối với một số vật kiến trúc của ông như trụ
đèn, dây điện âm tường chưa được ghi nhận bồi thường. Do đó, ông B.K.Q. đề nghị
UBND huyện xem xét giải quyết cho ông.
Đối với nội dung này,
UBND huyện đã chỉ đạo Hội đồng bồi thường dự án huyện chủ trì, phối hợp Phòng
Kinh tế - Hạ tầng huyện và các cơ quan liên quan rà soát, tham mưu UBND huyện
giải quyết nội dung kiến nghị ông B.K.Q. theo quy định của pháp luật.
Lê Thị Thu Oanh Thanh tra huyện